Một trong những vấn đề và cũng là một câu hỏi lớn gây tranh cãi trong nhân gian hiện nay đó chính là “Sư có được ăn thịt không?”. Hoặc người theo đạo phật có được phép ăn thịt (ăn mặn) hay không? Câu hỏi này là một cuộc tranh cãi đã tiếp diễn suốt bao đời nay và chưa đi đến hồi kết, vậy đâu là câu trả lời thỏa đáng.
Trước khi thầy đi hạ, tôi có theo chân sư huynh vào chùa. Thực ra cứ mỗi khi căng thẳng tôi hay lui tới chùa và nếu thầy ở đó ngồi nghe thầy giảng về đạo cũng rất hay. Hoặc không, lang thang quanh chùa nghe chim hót, đắm chìm mình trong không gian tuyệt vời cũng là một cách giải toả phần nào đó phiền muộn.
Tôi thường lui tới hai ngôi chùa tôi đặc biệt thích. Thích ở không gian, thích ở tâm đức của các thầy. Và một ngày, tôi chợt nhận ra rằng hai thầy thì một thầy ăn chay và một thầy có thể ăn mặn nếu có phật tử ghé thăm, ở lại dùng cơm với thầy hoặc thầy ghé qua nhà phật tử có công việc.
Thẩy vẫn nói “chú Dương ạ, chú ghé nhà chùa, chú có thể ăn mặn. thầy cũng ăn được nhưng thầy hạn chế”. Bất giác tôi nhớ lại bà nội tôi – một người sùng đạo và tất cả các bà sư bà sãi ở chùa làng, họ tôn sùng một triết lí đó là ăn chay, không ăn thịt. Vậy đâu là bản chất của vấn đề.
Tôi đã mất rất nhiều thời gian tìm đọc các tài liệu chính thống từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó có cả những tài liệu về phật giáo của Trung Quốc. Và tôi có thể thấy rằng, có lẽ chúng ta đã hiểu sai. Hoặc cũng có thể có sự sai lệch trong quá trình truyền bá đạo giáo của thế hệ sau.
Có thể bạn quan tâm
Đi tìm câu trả lời “Nhà Sư có được ăn thịt không?”
Tôi đã đem băn khoăn này đi hỏi hai vị sư huynh của hai thầy khác nhau và câu trả lời hoàn toàn khác nhau, vị su huynh đầu tiên có nói đại khái rằng “đã theo đạo là từ bỏ khái niệm ăn mặn, người tu hành không sát giới, không ăn thịt“.
Vị su huynh thứ hai có chia sẻ…
” Việc ăn mặn hay ăn chay còn tùy thuộc vào ý niệm, nhánh của người tu hành. Tuy nhiên, nhà sư vẫn có thể ăn mặn. Trước đó Đức Phật đi hành khất người ta cho gì ăn nấy, làm gì có được kén chọn, không kén chọn giàu nghèo, không kén chọn đồ được cho, vậy thì người ta cho thịt cũng sẽ ăn thịt, tuy nhiên có ba loại thịt là cần kiêng cữ. Bản chất việc ăn thịt hay không không có cơ sở để nói là cấm, chỉ là hạn chế, nhìn chung Thầy vẫn có thể ăn thịt và Thầy có ăn, như đến nhà phật tử, người ta nấu gì thầy ăn đó, làm gì cần phải kén chọn.”
Trong trí tưởng tượng của đại chúng, các nhà sư thường gắn liền với việc ăn chay, và quan niệm “nhà sư không được ăn thịt” dường như hiển nhiên. Tuy nhiên, khi tìm hiểu sâu hơn, ta sẽ thấy bối cảnh tôn giáo, văn hóa phức tạp và sự phát triển lịch sử đằng sau điều này, bất chấp câu trả lời đơn giản “có” hoặc “không”.
Phật giáo Ấn Độ thời kỳ đầu không có quy định nghiêm ngặt về việc ăn chay. Trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, các nhà sư sống bằng cách khất thực, ăn bất cứ thứ gì người ta bố thí cho họ, khiến việc đảm bảo một chế độ ăn chay hoàn toàn trở nên khó khăn. Đức Phật cũng không cấm các nhà sư ăn “ba loại thịt thanh tịnh”: thịt chưa bị giết, chưa nghe nói đến, hoặc nghi ngờ bị giết.
Quy định này là một sự thích nghi với môi trường xã hội đương thời và cách mà người tu hành nhận bố thí. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của Phật giáo Trung Quốc, việc ăn chay dần trở thành một yêu cầu phổ quát đối với các nhà sư. Một nhân vật chủ chốt là Hoàng đế Lương Vũ Đế, Tiêu Viêm, trong thời Nam Triều. Là một Phật tử thuần thành, ông đã nghiên cứu sâu sắc kinh điển Phật giáo và kết luận rằng việc ăn thịt vi phạm nguyên lý cơ bản của Phật giáo về lòng từ bi và kiêng sát sinh.
Do đó, với tư cách là một hoàng đế, ông đã mạnh mẽ ủng hộ việc ăn chay trong giới tăng lữ và thậm chí còn viết “Kiêng Rượu và Thịt Luận”, yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt. Từ đó trở đi, ăn chay đã trở thành một giới luật cơ bản của các nhà sư Phật giáo Trung Hoa, một thực hành vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Phật giáo Hán truyền (Phật giáo Đại thừa – Bắc Tông) không chỉ cấm thịt mà còn cấm cả “ngũ vị cay” như hành tây và tỏi, vì chúng có thể ảnh hưởng đến sự tập trung và minh mẫn của người tu hành.
Thực tế sự khác nhau giữa các nhánh phật giáo do điều kiện sống
Ở những khu vực như cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng, nơi Phật giáo Tây Tạng được thực hành, khí hậu lạnh hạn chế sự phát triển của cây trồng, khiến thịt trở thành nguồn năng lượng và dinh dưỡng thiết yếu. Do đó, việc tiêu thụ thịt phổ biến hơn trong giới tăng lữ, nhưng việc kiêng sát sinh và tôn trọng sự sống cũng được đề cao.
Ở các vùng theo Phật giáo Nguyên thủy như Thái Lan và Myanmar, các nhà sư vẫn duy trì truyền thống khất thực, ăn bất cứ thứ gì người cúng dường cho họ, và việc tiêu thụ thịt vẫn diễn ra. Hơn nữa, định nghĩa về “không lành mạnh” cũng khác nhau giữa văn hóa hiện đại và Phật giáo.
Thuật ngữ “không lành mạnh” hiện đại thường dùng để chỉ thịt, trong khi trong Phật giáo, thuật ngữ này ban đầu dùng để chỉ các loại rau có mùi nồng như hành tây, tỏi và tỏi tây. Ngay cả khi thịt được phép, những món ăn “không lành mạnh” này cũng bị cấm.
Việc các nhà sư có thể ăn thực phẩm không lành mạnh hay không không phải là điều được định nghĩa chung cho mọi người; nó bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như truyền thống Phật giáo khác nhau, văn hóa khu vực và sự phát triển lịch sử. Hầu hết các nhà sư Phật giáo Hán truyền đều tuân theo chế độ ăn chay, thể hiện lòng từ bi và sự thanh tịnh trong tu tập của họ.
Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Nguyên thủy có sự khác biệt về vấn đề tiêu thụ thịt do hoàn cảnh thực tế. Tuy nhiên, tất cả các Phật tử đều tuân thủ các giáo lý cốt lõi là kiêng khem và tôn trọng sự sống, mỗi người theo đuổi sự giải thoát tâm linh và bình an nội tâm theo cách riêng của mình. Điều này phản ánh những hàm ý phong phú và thực hành đa dạng của văn hóa Phật giáo, xứng đáng được chúng ta thấu hiểu một cách khách quan và bao quát.
Đức Thích Ca Mâu Ni và các đệ tử của Ngài có ăn thịt vào thời Đức Phật không?
Câu trả lời là có. Vào thời đó, Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài sống bằng cách khất thực. Mỗi nhà sư, mang theo một chiếc bát, đi từng nhà ở những khu vực đông dân cư, chẳng hạn như thành phố và làng mạc, để khất thực. Họ chỉ có thể gõ cửa bảy hộ gia đình một lần. Nếu không nhận được thức ăn, họ sẽ không có thức ăn trong ngày. Việc khất thực có một số lợi ích:
- Thứ nhất, nó cho phép các nhà sư thực sự không sở hữu bất kỳ tài sản nào, kể cả bữa ăn hàng ngày của họ.
- Thứ hai, thông qua việc khất thực, họ có thể ngẫu nhiên chia sẻ Pháp và nghiệp tốt với chúng sinh.
Ví dụ, trong khi khất thực, họ có thể giảng Pháp cho những người bình thường sẵn lòng lắng nghe. Hơn nữa, Phật giáo tin rằng việc cúng dường Tăng đoàn từ những người bình thường có thể tích lũy công đức lớn. Đức Phật chủ trương khất thực với tâm bình thản. Đây là một thực hành Phật giáo quan trọng – không phân biệt đối xử.
Các nhà sư không nên chỉ khất thực từ người giàu hay người nghèo (họ nên chia sẻ nghiệp tốt của Pháp một cách bình đẳng với những người bình thường). Hơn nữa, gia đình mà bạn khất thực hôm nay phải khác với gia đình mà bạn khất thực hôm qua. Bạn không thể ngày nào cũng đến một gia đình nào đó chỉ vì họ nấu những món ăn ngon và tinh tế. Quan trọng nhất, bạn nên chấp nhận và ăn bất cứ thức ăn nào được dâng cúng, dù là đồ chay hay đồ mặn.
Đây chính là sự bình thản đích thực. Về vấn đề ăn thịt, chính Đức Phật đã từng bị chỉ trích. Trong kinh thứ 55 của Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) thuộc Kinh điển Pali, một vị ngự y của vua đã đến gặp Đức Phật và kể với Ngài về sự nghi ngờ rằng Ngài đã ăn thịt người ta giết cho Ngài. Đức Phật trả lời: “Ta chỉ ăn ba loại thịt thanh tịnh: thịt thanh tịnh mà Ta không thấy bằng mắt (trực tiếp nhìn thấy con vật bị giết), thịt thanh tịnh mà Ta không nghe bằng tai (trực tiếp nghe thấy tiếng động của con vật bị giết), và thịt thanh tịnh mà Ta không nghi ngờ (nghi ngờ rằng con vật bị giết cho Ta).”
Như vậy, chúng ta thấy rằng Đức Phật đã sử dụng ba tiêu chí này để phân biệt giữa thịt ăn được và thịt không ăn được. Đây là những tiêu chí quan trọng nhất liên quan đến việc tiêu thụ thịt.
Ý niệm của người theo đạo.
Cho dù là có ăn mặn hay không thì mọi người theo đạo vãn thường có ý niệm rằng “việc ăn thịt cho dù là hình thức nào cũng có thể là gián tiếp hoặc trực tiếp tham gia quá trình sát sinh.
Tôi cũng từng bị các bạn đồng tu Phật giáo chất vấn về việc ăn thịt. Tôi muốn mang bánh ngọt và bánh trung thu đến cùng ăn với một một vài người, nhưng bị ngăn cản, họ lập luận rằng trứng và các sản phẩm từ sữa cũng được coi là những sản phẩm thịt không thể chấp nhận được. Một số bạn đồng tu quá ám ảnh với việc ăn chay. Họ không chỉ kiêng thịt mà còn cấm gia đình ăn thịt, nổi giận và thậm chí cãi vã mỗi khi thấy họ ăn thịt.
Một số người thậm chí còn khăng khăng ăn chay trong suốt thai kỳ, kiêng hoàn toàn thịt, để con cái họ được “thanh tịnh” ngay từ trong bụng mẹ. Mỗi khi chứng kiến những hành vi này, tôi lại cảm thấy ái ngại, chẳng phải điều này đang ngày càng đi chệch khỏi giáo lý vô phân biệt của Đức Phật.
Thực hành Phật giáo của chúng ta là nuôi dưỡng lòng từ bi chân chính, chứ không phải một tâm vị kỷ hay bám víu vào hình thức bên ngoài. Cá nhân tôi rất thích câu trích dẫn này của Dzongsar Khyentse Rinpoche: “Tôi thà muốn một người tự gọi mình là Phật tử vì họ ‘mong muốn hạnh phúc cho tất cả chúng sinh, còn hơn là một người tự gọi mình là Phật tử vì họ ăn chay, tụng thần chú và thiền định.” Ở đây, tôi chân thành cầu nguyện rằng tất cả chúng sinh đều có thể tìm thấy hạnh phúc, kể cả vấn đề ăn thịt hay ăn chay.
Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo.
The finest hotel on the island
Rooms
Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Curabitur fermentum odio feugiat, porta ante maximus, convallis ligula.
More infoFacilities
Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Curabitur fermentum odio feugiat, porta ante maximus, convallis ligula.
More infoRates
Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Curabitur fermentum odio feugiat, porta ante maximus, convallis ligula.
More info- Đừng cố gắng khởi nghiệp chỉ vì sở thích của bạn
- Bốn cung hoàng đạo có vận may nhất năm 2026
- Chiêm nghiệm về mệnh Hải Trung Kim, kho vàng ẩn mình dưới biển sâu chờ ngày tỏa sáng
- Kiến thức đá quý – Loại dầu được sử dụng để ngâm đá quý Ngọc lục bảo là gì?
- Tinh thần uy nghiêm của năm Dần – Vận mệnh tuổi Dần nửa cuối năm 2025